PGS,TS NGUYỄN NGỌC HÒA
Học viện Chính trị khu vực III
1. Xuyên suốt lịch sử 75 năm, qua nhiều lần đổi tên, tùy vào tình hình, điều kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam, Học viện Chính trị khu vực III đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ thường xuyên, trọng tâm, cốt lõi nhất.
Năm 1949, Trường Đảng Liên khu V (tiền thân của Học viện Chính trị khu vực III hiện nay) được thành lập tại thôn Ân Tường (nay thuộc xã Ân Tường Đông), huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Nhiệm vụ của trường là đào tạo, huấn luyện cán bộ khu vực Trung Trung Bộ. Chương trình học tập tại Trường Đảng Liên khu V là những vấn đề về Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, tập trung vào nội dung chỉnh đảng của Trung ương. Năm 1961, Trường Đảng Khu V chính thức mở khóa đầu tiên với số lượng 40 học viên là các đồng chí Khu ủy viên và một số đồng chí là Bí thư Tỉnh ủy, Thường vụ Tỉnh ủy và Bí thư Huyện ủy. Nội dung giảng dạy nhằm trang bị cho học viên những kiến thức lý luận cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lênin, quán triệt Nghị quyết Trung ương 15 (Khóa II) về đường lối cách mạng miền Nam, nghiên cứu nghị quyết của Khu ủy về thực hiện Nghị quyết Trung ương 15; các bài giảng về công tác dân vận, công tác đảng, vấn đề rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, phẩm chất cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Đến năm 1965, nội dung chương trình giảng dạy của trường được cải tiến thành 3 phần: phần lý luận cơ bản, phần đường lối, chính sách và phần xây dựng Đảng.
Sau giải phóng, để đáp ứng với nhiệm vụ, yêu cầu mới, năm 1976, Trường Nguyễn Ái Quốc IV được thành lập trên cơ sở hợp nhất Trường Đảng Khu V và Trường Nguyễn Ái Quốc Phân hiệu IV. Trường Nguyễn Ái Quốc IV có nhiệm vụ: “bồi dưỡng, đào tạo cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý cấp huyện, cán bộ nghiên cứu của các cơ quan nông nghiệp của tỉnh và bồi dưỡng về lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo các nông trường quốc doanh các tỉnh thuộc Khu V, Khu VI cũ và tỉnh Bình Trị Thiên. Trường có riêng hệ bồi dưỡng, đào tạo cán bộ dân tộc ít người”1.
Năm 1983, Trường Nguyễn Ái Quốc III được thành lập trên cơ sở hợp nhất các trường: Nguyễn Ái Quốc IV, Nguyễn Ái Quốc XI và Tuyên huấn Trung ương II. Trường có nhiệm vụ: đào tạo cán bộ theo chương trình lý luận chính trị cao cấp đối với các chức danh bí thư, phó bí thư, chủ tịch ủy ban nhân dân, các trưởng ban của đảng ở cấp huyện, quận và thị xã, bí thư đảng ủy các xí nghiệp quốc doanh, các bệnh viện, trường học và cán bộ tương đương ngoài diện Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc phụ trách; bồi dưỡng lý luận chính trị và năng lực công tác cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của huyện, quận, thị xã và một bộ phận cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh; tổ chức nghiên cứu lý luận nâng cao chất lượng giảng dạy. Do đặc thù của vấn đề dân tộc, Ban Bí thư Trung ương Đảng giao Trường Nguyễn Ái Quốc III nhiệm vụ mở các lớp hệ đặc biệt đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp huyện là người các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các huyện miền núi khu vực miền Trung2.
Sau này trường tiếp tục đổi tên thành Trường Nguyễn Ái Quốc khu vực III (1990), Phân viện Đà Nẵng (1993), Học viện Chính trị khu vực III (2005), Học viện Chính trị – Hành chính khu vực III (2007). Đến năm 2014, Học viện Chính trị – Hành chính khu vực III được trở lại tên gọi cũ là Học viện Chính trị khu vực III theo Quyết định của Bộ Chính trị về tách Học viện Hành chính quốc gia ra khỏi Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Hiện nay, Học viện Chính trị khu vực III là đơn vị trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Theo Quyết định số 6589-QĐ/HVCTQG ngày 01-11-2018 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị khu vực III, Học viện Chính trị khu vực III là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội, các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên; nghiên cứu khoa học lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý. Học viện Chính trị khu vực III có nhiệm vụ đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị, lãnh đạo chủ chốt của các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và các đối tượng khác trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên; bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho cán bộ giữ chức danh lãnh đạo, quản lý của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác tổ chức, kiểm tra, nội chính, kinh tế, bảo vệ chính trị nội bộ, dân vận, văn phòng cấp ủy, tôn giáo, dân tộc… của hệ thống chính trị3. Như vậy, do điều kiện lịch sử, tiền thân của Học viện Chính trị khu vực III chủ yếu là huấn luyện cán bộ, sau đó là đào tạo bồi dưỡng và hiện nay nghiên cứu khoa học trở thành bộ phận cốt lõi trong chức năng, nhiệm vụ của Học viện.
2. Là trung tâm nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn tại khu vực Miền Trung và Tây Nguyên, Học viện Chính trị khu vực III đã có những bước phát triển vượt bậc, nhất là trong 5 năm, 10 năm gần đây. Những thành quả đó được thể hiện trong các khía cạnh sau:
Thứ nhất, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị khu vực III ngày càng được mở rộng, chất lượng được nâng cao
Trong những năm qua, nhất là trong 5 năm gần đây, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị khu vực III khá sôi nổi từ đề tài khoa học cho đến hội thảo, hợp tác quốc tế. Chẳng hạn, trong giai đoạn 2017 – 2023, Học viện đã thực hiện 157 đề tài khoa học các cấp, trong đó có 05 đề tài, dự án cấp nhà nước; 02 đề án cấp bộ trọng điểm; 01 dự án điều tra cơ bản cấp bộ; 04 đề tài cấp tỉnh phối hợp với các địa phương; 21 đề tài cấp Bộ; 124 đề tài cấp cơ sở. Trong giai đoạn 2017 – 2023, Học viện đã tổ chức và phối hợp với các đơn vị tổ chức được 179 cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học các cấp. Vềhội thảo, tọa đàm khoahọc, trong đó, 04 cuộc hội thảo cấp Bộ; 54 cuộc hội thảo cấp cơ sở. Bên cạnh đó, các đơn vị nghiên cứu, giảng dạy của Học viện đã tổ chức 121 cuộc tọa đàm khoa học. Riêng trong năm 2024 đã tổ chức hơn 20 hội thảo các loại hình từ hội thảo quốc tế đến quốc gia, cấp Bộ… Mỗi hội thảo đều có từ 40 đến trên 60 tham luận và sự tham gia đông đảo các nhà khoa học trong nước và khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, thậm chí có cả các huyện đảo như Trường Sa, Lý Sơn, Cồn Cỏ… Cũng trong giai đoạn này, đội ngũ nghiên cứu khoa học của Học viện công bố trên 1.000 bài báo khoa học trên các tạp chí khoa học quốc tế, quốc gia; xuất bản được gần 100 đầu sách tham khảo, chuyên khảo các loại.
Thứ hai, đội ngũ nghiên cứu khoa học ngày càng tăng và trình độ ngày càng được nâng cao
Do yêu cầu của thực tiễn, nhất là nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đội ngũ nghiên cứu khoa học của Học viện ngày càng đông đảo, trình độ được nâng cao, được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn đáp ứng tốt yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Theo thống kê, trong tổng số 202 cán bộ (tính đến tháng 5 – 2024) thì đội ngũ giảng viên, nghiên cứu khoa học là 92 người (nam: 54 người, nữ: 38 người): phó giáo sư, tiến sĩ: 07 người; tiến sĩ: 48 người; thạc sĩ: 33 người; cử nhân: 04 người… Tại thời điểm 2019, Học viện Chính trị khu vực III có 85 giảng viên trong đó có 11 phó giáo sư, 51 tiến sĩ, một số giảng viên đang nghiên cứu sinh, còn lại đã đạt trình độ thạc sĩ.
Thứ ba, hoạt động nghiên cứu khoa học đã được đa dạng hóa ở nhiều hình thức, quy mô khác nhau, từng bước tạo dựng uy tín của Học viện
Một trong những hoạt động khởi sắc gần đây là sự liên kết, phối hợp nghiên cứu khoa học ngày càng nhiều hơn ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Cụ thể là Học viện đã phối hợp với Tỉnh ủy Quảng Nam, Tỉnh ủy Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Khánh Hòa, Thừa Thiên Huế, Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng, Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân, Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ tổ chức nhiều hội thảo khoa học, triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học cấp tỉnh.
Đối với nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học: trong giai đoạn 2017 – 2023, Học viện tổ chức 21 đoàn ra, vào nghiên cứu, tổ chức hội thảo, tọa đàm, trao đổi học thuật với các đối tác như trường Đại học Thượng Hải, Trung Quốc; trường Đảng tỉnh ủy Sơn Đông, Trung Quốc (nay là Học viện Hành chính Sơn Đông, Trung Quốc); Học viện Hành chính Quảng Tây, Trung Quốc; Trung tâm Giao lưu quốc tế, đào tạo cán bộ tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc (nay là Học viện Hành chính Thiểm Tây, Trung Quốc); trường Chính trị – Hành chính tỉnh Savannakhet, CHDCND Lào; Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào; Trường Đại học Champasat, Thái Lan; Học viện Quản lý Singapore. Ngoài ra, đi nghiên cứu khảo sát thực tế tại các nước như Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Campuchia… Đón tiếp và trao đổi học thuật với các chuyên gia, nhà khoa học đến từ Hàn Quốc. Tổ chức đón tiếp, làm việc và hỗ trợ Tổng Lãnh sự quán Hàn Quốc tại Đà Nẵng…
Đặc biệt, kể từ năm 2018, sau khi Trung ương ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, Học viện đã triển khai, tổ chức thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học ngày càng đầy đủ và có hiệu quả các nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên các mặt công tác chủ yếu: nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng và tuyên truyền.Với Nghị quyết này, Học viện đã triển khai các nhiệm vụ khoa học phục vụ công tác 35 dưới các hình thức đề tài khoa học, tọa đàm, hội thảo khoa học, xây dựng các tuyến bài về bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Ngoài ra, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện còn được mở rộng trong hoạt động phối hợp tổ chức hội thảo, tư vấn, thẩm định các nhiệm vụ khoa học, nghiên cứu tổng kết thực tiễn, xây dựng báo cáo kiến nghị…
Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện đã hoàn thành khối lượng khá lớn nhiệm vụ khoa học. Trên cơ sở từ các công trình nghiên cứu khoa học, đội ngũ giảng viên đã ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào giảng dạy và tích hợp, lồng ghép nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch vào xây dựng đề cương bài giảng, kế hoạch giảng dạy. Chất lượng nghiên cứu khoa học từng bước được nâng lên. Nội dung các sản phẩm khoa học cơ bản đáp ứng yêu cầu về kết quả vận dụng vào việc phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng ở Học viện, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc tham vấn chính sách và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình hiện nay.
3. Chặng đường 75 năm qua là khoảng thời gian khá dài để nhìn lại những đóng góp của Học viện Chính trị khu vực III trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học trong hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến đổi khó lường thì nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị khu vực III, nhất là nghiên cứu lý luận chính trị lại càng nặng nề đòi hỏi phải phát huy sức sáng tạo không ngừng trong tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận. Chính vì vậy, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị khu vực III trong thời gian sắp tới cần tập trung vào các định hướng lớn:
Trước hết, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị khu vực III cần hướng đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng, nhất là đối với đào tạo cao cấp lý luận chính trị tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Có thể nói rằng, sự phát triển của Học viện Chính trị khu vực III trong những năm tới tựu trung đều thể hiện trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đây là hai nhân tố cơ bản làm nên sự phát triển của Học viện Chính trị khu vực III. Không nghiên cứu khoa học tốt sẽ không giảng dạy tốt và ngược lại, giảng dạy mà thiếu nguồn năng lượng, tri thức được bồi đắp, tích lũy từ nghiên cứu khoa học thì sẽ không có chất lượng. Đối với lý luận chính trị việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng và bổ sung những vấn đề lý luận về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng…
Để những định hướng đó khả thi và đi vào hiện thực, cần đầu tư kinh phí cho nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện nhiều hơn nữa cho đội ngũ nghiên cứu khoa học, giảng viên xâm nhập thực tế, bởi lẽ, đối với Học viện Chính trị khu vực III, đội ngũ nghiên cứu khoa học hầu hết là giảng viên. Đây là một trong những giải pháp cốt lõi để giải quyết tình trạng trống vắng hiểu biết thực tiễn hiện nay của đội ngũ giảng viên Học viện Chính trị khu vực III. Qua sơ kết, tổng kết ở các lớp không tập trung tại các địa phương ở miền Trung – Tây Nguyên, thì hầu hết học viên cho rằng còn nhiều giảng viên Học viện Chính trị khu vực III thiếu kiến thức thực tiễn và non kinh nghiệm giảng dạy. Điều này có một phần lý do là đội ngũ giảng viên Học viện Chính trị khu vực III ít đi thực tế tại địa phương hoặc thực tế một cách hình thức, lấy lệ do kinh phí dành cho hoạt động này quá ít ỏi.
Thiếu hiểu biết thực tiễn, một mặt có nguyên nhân từ chỗ một số giảng viên lười nghiên cứu khoa học. Cụ thể là lười đọc, lười ghi chép và lười viết bài nghiên cứu khoa học. Một số giảng viên viện cớ số lượng tiết nhiều nên không có thời gian nghiên cứu khoa học, trong khi đó chính nghiên cứu khoa học là hoạt động tích lũy kiến thức lý luận và thực tiễn để giảng dạy có hiệu quả hơn. Chính nghiên cứu khoa học bồi đắp năng lượng, hồi sinh năng lượng cho quá trình giảng dạy. Thực tế cho thấy những giảng viên nào nghiên cứu khoa học tốt, chịu khó suy nghĩ, phát hiện vấn đề thì sẽ cho những kịch bản giảng dạy sinh động, không rơi vào sáo mòn, đơn điệu.
Thiếu hiểu biết thực tiễn còn có nguyên nhân từ chỗ giảng viên ngại khó khăn không đi thực tế, điền dã. Chính quá trình thực tế, điền dã dài ngày tại địa phương, vùng sâu vùng xa sẽ cho giảng viên cái nhìn toàn diện, không sa vào lý luận suôn và áp đặt. Quá trình thực tế, đặc biệt là tài quan sát, nắm bắt vấn đề sẽ đặt ra nhiều câu hỏi trong giải quyết những vấn đề nan giải mà học viên nêu ra trong quá trình thảo luận. Vì vậy, trong thời gian tới cần có kế hoạch dài hạn tổ chức cho giảng viên đi nghiên cứu thực tế bằng nhiều hình thức để nâng cao chất lượng giảng viên của Học viện.
Để nghiên cứu khoa học có hiệu quả và tổ chức tốt các đợt nghiên cứu, điền dã, cần đầu tư nguồn lực cho các hoạt động này, đặc biệt là đầu tư kinh phí. Thực tế hiện nay, kinh phí dành cho nghiên cứu thực tế hàng năm cho từng giảng viên, nghiên cứu viên rất ít ỏi cho nên một số đơn vị, cá nhân không có điều kiện đi thực tế khắp các tỉnh, thành miền Trung – Tây Nguyên mà chỉ loanh quanh các địa phương gần Đà Nẵng như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị.
Cùng với việc phục vụ giảng dạy, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị khu vực III phải chú trọng, bám sát hơn nữa hoạt động tổng kết thực tiễn 40 năm đổi mới, nhất là tổng kết thực tiễn khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Đây là hoạt động bao gồm các chuỗi thực hành khoa học đòi hỏi đội ngũ giảng viên, đội ngũ nghiên cứu khoa học cần nhận thức đầy đủ để việc nghiên cứu khoa học đạt kết quả thực thụ, nhất là đối với khoa học lý luận chính trị, bởi lẽ lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, là tiền đề cho việc xây dựng chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trên cơ sở bám sát quan điểm trong các văn kiện Đại hội của Đảng, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị khu vực III phải có những công trình nghiên cứu cung cấp luận cứ khoa học, kiến nghị các giải pháp thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Một vấn đề nữa là đẩy mạnh việc kết nối, hợp tác, xây dựng kế hoạch để tổ chức các hội thảo lớn mang tầm quốc gia và quốc tế đồng thời tiếp cận các đề tài cấp nhà nước để nâng tầm nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị khu vực III và thích ứng với những biến đổi xã hội trong tình hình mới. Đây không chỉ là quá trình vận động mà còn là thước đo cho đội ngũ lãnh đạo và cán bộ nghiên cứu khoa học đi đầu trong mở rộng hợp tác, giao lưu nghiên cứu khoa học. Điều này đòi hỏi đội ngũ nghiên cứu khoa học Học viện Chính trị khu vực III không chỉ chuyên sâu về chuyên môn mà còn giỏi về ngoại ngữ, nhạy bén về cái mới trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, trong đó có thế mạnh về nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
1, 2. Học viện Chính trị – Hành chính khu vực III – 60 năm xây dựng và phát triển (1949 – 2009), Nxb CTQG, H, 2009, tr. 4, 92.
3. Ban Chấp hành Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Quyết định số 6589-QĐ/HVCTQG ngày 01-11-2018 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị khu vực III, tr. 1.
Ban Biên tập Cổng TTĐT
(Nguồn: Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 7/2024)