Học viện Chính trị khu vực III – 75 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển (1949 – 2024)

PGS,TS ĐOÀN TRIỆU LONG
Học viện Chính trị khu vực II

Xác định miền Trung – Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng, ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cùng với việc thành lập Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, Đảng ta chủ trương thành lập trường Đảng ở các khu, trong đó có trường Đảng Liên khu V (năm 1949), với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trung, cao cấp của Đảng phục vụ nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến ở các tỉnh từ Quảng Nam đến Bình Thuận và các tỉnh Tây Nguyên. Kể từ thời điểm đó đến nay, trường Đảng Liên khu V – tiền thân của Học viện Chính trị khu vực III (Học viện) đã trải qua chặng đường 75 năm phát triển. 

1. Những cột mốc trong hành trình xây dựng, trưởng thành và phát triển của Học viện Chính trị khu vực III (1949 – 2024)

Nhìn lại 75 năm, trải qua 09 lần đổi tên, 04 lần tách, sáp nhập, Học viện có những cột mốc quan trọng gắn liền với những giai đoạn phát triển của sự nghiệp cách mạng và những chủ trương của Đảng trong công tác huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học (NCKH) ở miền Trung – Tây Nguyên.

Giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, Trường Đảng Liên khu V (1949 – 1954) đóng tại thôn Ân Tường (nay thuộc xã Ân Tường Đông, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định), do đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Trung Trung Bộ, Bí thư Liên khu ủy Khu V phụ trách. 

Trong kháng chiến chống Mỹ, khi cách mạng miền Nam chuyển từ thế bị động, sang tấn công, tạo thế và lực cho một cục diện mới, dưới ánh sáng của Nghị quyết 15 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, Khu ủy Khu V quyết định thành lập Trường Đảng Khu V vào đầu năm 1961, trực thuộc Ban Tuyên huấn Khu ủy làm nơi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng trong toàn khu. Trường đóng tại huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam, do các đồng chí Thường vụ Khu ủy luân phiên phụ trách. Đến tháng 3 – 1963, Trường chuyển về địa điểm làng Tà Du, tỉnh Kon Tum. Đầu năm 1965, trước diễn biến mới của chiến trường miền Nam và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngày càng tăng, Thường vụ Khu ủy khu V quyết định tách Trường Đảng Khu V ra khỏi Ban Tuyên huấn trở thành một đơn vị độc lập, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của khu ủy, do đồng chí Võ Chí Công, Bí thư khu ủy trực tiếp phụ trách. Ngay sau đợt 1 của chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Thường vụ Khu ủy quyết định “Mở lại trường Đảng khu, tỉnh và các trường đào tạo cán bộ, chuẩn bị cán bộ cho thành phố được giải phóng và các ngành công tác kịp thời với phát triển mới của tình hình” (Nghị quyết số 7 của Khu ủy, tháng 4 – 1968), đồng thời để tăng cường công tác lãnh đạo của Trường, Thường vụ Khu ủy quyết định thành lập Ban lãnh đạo Trường, do đồng chí Trần Tâm, nguyên Phó Ban Tuyên huấn phụ trách chung.

Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Trường Đảng khu V chuyển về phường An Hải Bắc, Quận 3 (nay là Quận Sơn Trà), Đà Nẵng. Ngày 13-7-1976, thực hiện quyết định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Trường Đảng khu V sát nhập với Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (phân hiệu IV) thành Trường Nguyễn Ái Quốc IV, do đồng chí Trần Tâm làm Giám đốc.

Ngày 02-01-1983, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa V ban hành Quyết định số 15-QĐ/TW về sắp xếp lại hệ thống trường Đảng. Theo đó, thành lập Trường Nguyễn Ái Quốc III trên cơ sở hợp nhất 3 trường: Trường Nguyễn Ái Quốc IV, Nguyễn Ái Quốc XI và Tuyên Huấn Trung ương II, hoạt động ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên, do đồng chí Trần Tâm làm Hiệu trưởng và đồng chí Trương Công Huấn làm Bí thư Đảng ủy lâm thời. Đến tháng 3 – 1990, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 103-QĐ/TW về việc sắp xếp lại hệ thống trường Đảng thuộc Trung ương, đổi tên Trường Nguyễn Ái Quốc III thành Trường Nguyễn Ái Quốc khu vực III trực thuộc Ban Bí thư Trung ương Đảng, do đồng chí Lê Văn Khả làm Hiệu trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Chỉnh làm Bí thư Đảng ủy.

Ngày 10-3-1993, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII ra Quyết định số 61-QĐ/TW về việc sắp xếp lại các trường Đảng Trung ương, chuyển Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc thành Học viện Chính trị quốc gia (CTQG) Hồ Chí Minh trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ; chuyển các trường Đảng khu vực I, II, III thành các Phân viện trực thuộc. Theo đó, Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc khu vực III đổi tên thành Phân viện Đà Nẵng trực thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh.

Để nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và NCKH chính trị, ngày 30-7-2005, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Quyết định số 149-QĐ/TW ngày 02-8-2005 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Thực hiện Nghị quyết 52-NQ/TW và Quyết định 149-QĐ/TW, ngày 03-6-2006, Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 302-QĐ/HVCTQG đổi tên Phân viện Đà Nẵng thành Học viện Chính trị khu vực III trực thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh.

Ngày 22-10-2007, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Quyết định số 100-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Theo đó, Học viện Chính trị khu vực III đổi tên thành Học viện Chính trị – Hành chính khu vực III. Đến cuối năm 2013, Học viện Hành chính và Học viện CTQG Hồ Chí Minh lại tách ra. Theo đó, từ ngày 18-02-2014, Học viện Chính trị – Hành chính khu vực III lại mang tên Học viện Chính trị khu vực III.

Dù phải trải qua nhiều lần đổi tên, tách, sáp nhập nhưng nhiệm vụ chính trị cơ bản, chủ chốt của Học viện vẫn không thay đổi. Tùy thuộc vào từng giai đoạn cách mạng cụ thể, nhiệm vụ chính trị của Học viện ngày càng được mở rộng. Từ chỗ Học viện có nhiệm vụ huấn luyện cán bộ là chủ yếu để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên sau Cách mạng Tháng Tám thành công; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trung, cao cấp của Đảng là chủ yếu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ; đào tạo cán bộ gắn với việc bổ túc văn hóa cho cán bộ sau giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn với nghiên cứu khoa học (NCKH) lý luận chính trị. Đến nay, Học viện có nhiệm vụ đào tạo cao cấp lý luận chính trị (CCLLCT), bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và kỹ năng lãnh đạo, quản lý, bồi dưỡng chức danh; NCKH lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý.

2. Một số kết quả nổi bật trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế của Học viện qua 75 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển (1949 – 2024)

2.1. Trên lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Trong kháng chiến chống Pháp, vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ, Trường Đảng Liên khu V đã mở nhiều lớp huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ, lớp “chỉnh đảng”… với 1.285 cán bộ từ cấp huyện trở lên ở khu vực Trung Trung Bộ, đáp ứng được đòi hỏi về cán bộ lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, chống âm mưu đánh phá của thực dân Pháp.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trường đã mở hàng trăm lớp đào tạo, bồi dưỡng cho hàng ngàn cán bộ. Chỉ tính riêng trong năm 1963, đã có trên 6.000 cán bộ các cấp và các đơn vị vũ trang được đào tạo, bồi dưỡng. Từ năm 1966 đến năm 1968, Trường Đảng khu V tiếp tục mở thêm 04 lớp với số lượng học viên mỗi lớp từ 50 đến 60 người. Từ năm 1970 đến tháng 3 năm 1976, trường Nguyễn Ái Quốc phân hiệu IV đã mở được 23 khóa, với 4.148 học viên, trong đó có 420 cán bộ trung cấp, 3.675 cán bộ sơ cấp và một số cán bộ cơ sở. Đây là lực lượng nòng cốt, góp phần không nhỏ vào quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, cùng nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Bác Hồ đã căn dặn “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, từ năm 1976 đến năm 1982, trường đã đào tạo, bồi dưỡng được 3.413 học viên các hệ: bồi dưỡng ngắn hạn, bồi dưỡng dài hạn; hệ đào tạo dài hạn; hệ giảng viên, hệ đặc biệt, hệ bổ túc văn hóa bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông.Từ năm 1983 đến năm 1993, trường đã mở 14 khóa hệ đào tạo cơ bản với 1.430 học viên; 08 khóa hệ đào tạo đặc biệt cho cán bộ dân tộc thiểu số với 488 học viên; 02 khóa bồi dưỡng nâng cao để hoàn chỉnh chương trình cao cấp cho một số học viên đã học ở Trường Nguyễn Ái Quốc IV và Trường Tuyên huấn Trung ương II; ngoài ra đã mở 03 lớp bồi dưỡng cơ bản với 184 học viên, 06 lớp bồi dưỡng Nghị quyết Đại hội Đảng tại trường với 808 học viên và một số lớp ở địa phương với hơn 3.000 học viên.

Từ năm 1993 đến nay, Học viện đã mở được 732 lớp đào tạo với số lượng 54.057 học viên thuộc các hệ, gồm: 37 lớp đại học chính trị cho 2.246 học viên, 26 lớp hoàn chỉnh đại học cho 1.140 học viên; 651 lớp CCLLCT hệ tập trung và hệ không tập trung cho 49.623 học viên (trong đó có 17 lớp hệ đặc biệt dành cho cán bộ người dân tộc thiểu số, với hơn 1.000 học viên), 08 lớp hoàn chỉnh chương trình CCLLCT với 548 học viên; phối hợp với Học viện CTQG Hồ Chí Minh mở 10 lớp đào tạo cao học cho gần 500 cán bộ lãnh đạo, quản lý ở miền Trung – Tây Nguyên. Ngoài ra, đã mở các lớp nghiên cứu Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng cho 2.064 cán bộ; 70 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức danh (tổ chức, dân vận, kiểm tra, văn phòng cấp ủy) cho 5.644 học viên và 22 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy/Thành ủy quản lý (đối tượng 3) với gần 2.000 học viên. Nhiều học viên của Học viện được phân công đảm nhiệm những trọng trách ở trung ương và địa phương.

2.2. Trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực Pháp và đế quốc Mỹ, nhiệm vụ chính trị của trường chủ yếu là nhanh chóng đào tạo cán bộ để kịp thời phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, đấu tranh giành độc lập, công tác NCKH chủ yếu là tổ chức nghiên cứu thực tế để bổ sung vào bài giảng, biên soạn một số giáo trình phục vụ cho nhiệm vụ giảng dạy. 

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, công tác NCKH chủ yếu là tổ chức các hội nghị khoa học cấp trường với những tham luận của các giảng viên và các nhà nghiên cứu ở các ngành cấp trung ương và một số địa phương miền Trung – Tây Nguyên (trung bình có từ 01 đến 02 hội nghị khoa học cấp trường trong một năm) hoặc là các buổi thông tin khoa học lý luận do các giảng viên ở Trung ương được mời về trao đổi, thông tin với đội ngũ cán bộ, giảng viên. Bắt đầu từ năm 1983, hoạt động NCKH của trường bắt đầu có những bước phát triển mới. NCKH không chỉ góp phần vào phục vụ công tác giảng dạy và học tập, mà còn góp phần vào tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Theo đó, từ năm 1983 đến nay, Học viện đã tổ chức và phối hợp tổ chức được gần 500 cuộc hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học với nhiều chủ đề khác nhau, một số cuộc hội nghị, hội thảo được tổ chức có sự phối hợp tham gia của các đơn vị khoa học ở trung ương và địa phương. Từ năm 1993 đến nay, Học viện đã thực hiện được 648 đề tài khoa học các cấp, trong đó: 17 đề tài, dự án cấp Nhà nước; 101 đề tài, dự án cấp Bộ; 14 đề tài cấp tỉnh phối hợp với các địa phương và 516 đề tài cấp cơ sở (từ 16 – 18 đề tài/năm). Bên cạnh đó, giảng viên, nghiên cứu viên Học viện đã công bố gần 3.000 bài báo khoa học trên các tạp chí khoa học quốc gia và quốc tế; tham gia viết gần 2.000 bài tham luận tại các hội thảo khoa học; xuất bản được 06 giáo trình và gần 200 đầu sách tham khảo, chuyên khảo các loại.

Các kết quả nghiên cứu của đề tài đều có chất lượng cao; kết quả nghiên cứu tại các hội thảo, tọa đàm khoa học được vận dụng vào bài giảng hỗ trợ đắc lực cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, nhất là đối với chương trình CCLLCT. Đặc biệt từ năm 2021 đến nay, hoạt động NCKH của Học viện đã có những đóng góp nổi bật thông qua việc xây dựng các báo cáo kiến nghị gửi Trung ương từ thực tiễn NCKH ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên, với 06 báo cáo kiến nghị đã được Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh thông qua. Năm 2024, Học viện đang xây dựng 02 Báo cáo kiến nghị gửi Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Các báo cáo kiến nghị của Học viện đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn cho Đảng, Nhà nước hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế đất nước, tham vấn chính sách ở các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên.

Trong hoạt động NCKH, Học viện luôn xác định công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là vấn đề quan trọng. Chính vì thế, ngay sau khi Học viện CTQG Hồ Chí Minh ban hành Kế hoạch số 10-KH/HVCTQG ngày 24-7-2019 về việc triển khai Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị thì Đảng ủy, Ban Giám đốc, Ban Chỉ đạo 35 của Học viện đã xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết 35 trong toàn Đảng bộ, trong cán bộ, đảng viên và học viên các lớp CCLLCT hệ tập trung tại Học viện, với nhiều hình thức triển khai đa dạng, phong phú như đề tài khoa học; tọa đàm, hội thảo khoa học; xây dựng các tuyến bài về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; tổ chức mô hình hoạt động của Đội công tác 35 trên không gian mạng; xây dựng video clip… Việc triển khai thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW ở Học viện đã có những kết quả nổi bật, như phối hợp với Ban Chỉ đạo 35 các Tỉnh ủy, Thành ủy tổ chức các hội thảo khoa học về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Triển khai cho cán bộ, giảng viên Học viện và học viên các lớp CCLLCT tham gia dự thi viết chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hàng năm. Kết quả, Học viện đã đạt được nhiều giải cá nhân và trở thành điểm sáng trong hệ thống về công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Học viện cũng xây dựng được mô hình tổ chức và hoạt động của Đội công tác 35 trên không gian mạng thông qua Fanpage Những ngọn lửa nhỏ, Group Facebook Những ngọn lửa nhỏ với hơn 1.000 thành viên tham gia thường xuyên; Cổng thông tin điện tử, Tạp chí Sinh hoạt lý luận của Học viện cũng tham gia đăng tải nhiều bài viết có chất lượng cao của các nhà nghiên cứu, chuyên gia trong và ngoài Học viện về nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Trong lĩnh vực NCKH, cùng với việc mở rộng quan hệ với các cơ quan trung ương và địa phương, từ năm 2001, được sự giúp đỡ của Học viện CTQG Hồ Chí Minh và Ban Đối ngoại Trung ương, Học viện đã thiết lập quan hệ hợp tác trong đào tạo và NCKH với trường Đảng một số tỉnh của Trung Quốc và Lào. Kể từ đó đến nay, công tác hợp tác quốc tế của Học viện đã có những bước tiến lớn trong giao lưu NCKH, học thuật bằng việc mở rộng và thiết lập quan hệ với trường Đảng của Lào, các trường đại học của Australia, Singapore, Hàn Quốc… Qua các chương trình hợp tác trao đổi kinh nghiệm, học thuật trong công tác đào tạo cán bộ và NCKH đã có 20 cuộc tọa đàm khoa học quốc gia được tổ chức giữa Học viện và các đối tác, 21 đoàn nghiên cứu, trao đổi học thuật với các đối tác. 

Ghi nhận những đóng góp to lớn của Học viện đối với sự nghiệp phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước và Học viện CTQG Hồ Chí Minh đã tặng nhiều bằng khen, giấy khen qua các giai đoạn xây dựng, trưởng thành và phát triển cho Học viện và các đơn vị, cá nhân thuộc Học viện như Huân, Huy chương kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Độc lập hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân Chương Hồ Chí Minh; Cờ thi đua của Chính phủ; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Bằng khen của Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh; Danh hiệu thi cấp Bộ; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục; Kỷ niệm chương vì sự nghiệp tư tưởng văn hóa, vì sự nghiệp tổ chức xây dựng Đảng, vì sự nghiệp công tác kiểm tra, vì sự nghiệp bảo vệ Đảng, vì sự nghiệp thế hệ trẻ…

3. Bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và những điểm nhấn trong năm học 2024 – 2025

* Nhìn lại chặng đường 75 năm xây dựng và phát triển, chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo sau đây:

Thứ nhất, phải nắm vững định hướng chính trị qua từng thời kỳ, bám sát nhiệm vụ chính trị được giao trong từng giai đoạn, kiên trì, kiên quyết thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của trường Đảng, gắn chặt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng với nhiệm vụ NCKH. Chú trọng vào tính hiệu quả, chất lượng trong mọi công việc. Lấy chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng và NCKH làm mục tiêu hướng tới; lấy đoàn kết thống nhất và sự đồng thuận đổi mới, sáng tạo làm động lực; lấy kỷ cương, kỷ luật làm nền tảng để không ngừng nâng cao vị thế, uy tín của Học viện.

Thứ hai, trên nền tảng của sự đoàn kết, cần phát huy tinh thần trách nhiệm và sáng tạo của tập thể lãnh đạo cũng như toàn thể đội ngũ cán bộ trong Học viện. Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Học viện CTQG Hồ Chí Minh trên tinh thần dân chủ, minh bạch, bằng các nghị quyết chuyên đề trong tất cả các lĩnh vực công tác của Học viện.

Thứ ba, chú trọng xây dựng mối liên hệ giữa Học viện với các tỉnh ủy, thành ủy ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên; giữa Học viện với các Vụ chức năng, các Viện chuyên ngành của Học viện CTQG Hồ Chí Minh; giữa Học viện với các trường đại học, các đối tác truyền thống để từng bước nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ chính trị của Học viện.

Thứ tư, quan tâm và thực sự tâm huyết, trách nhiệm trong việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc, cảnh quan môi trường, đời sống vật chất và tinh thần của công chức, viên chức, người lao động và học viên. Phát huy tinh thần chủ động, tự lực cánh sinh với sự ủng hộ, giúp đỡ của Học viện CTQG Hồ Chí Minh, các bộ, ban, ngành ở trung ương và địa phương, của công chức, viên chức, người lao động và học viên; giải quyết hài hòa giữa cống hiến, năng suất, chất lượng, hiệu quả với hưởng thụ vì lợi ích chung của Học viện.

* Phát huy và kế thừa truyền thống, kết quả của 75 năm, trong năm học 2024 – 2025, Học viện tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị được giao với những điểm nhấn sau đây:

Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng của Học viện, đổi mới mạnh mẽ phương pháp giảng dạy và học tập theo tinh thần Nghị quyết số 09-NQ/ĐU của Đảng ủy. 

Nâng cao hiệu quả, chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học phục vụ trực tiếp công tác đào tạo, bồi dưỡng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ động xây dựng báo cáo kiến nghị cho trung ương và các bộ, ngành, địa phương.

Xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng; không ngừng nâng cao về bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và có tinh thần trách nhiệm cao với công việc chung. Phát huy sáng kiến, cải tiến lề lối làm việc và nâng cao đạo đức công vụ – đạo đức nhà giáo gắn với xây dựng văn hóa trường Đảng.

Tiếp tục hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Học viện. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, điều hành, đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào lao động xã hội chủ nghĩa trong công chức, viên chức, người lao động và học viên tại Học viện nhằm huy động lực lượng tham gia cải tạo cảnh quan môi trường của Học viện ngày một khang trang, đảm bảo xanh, sạch, đẹp.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong công tác và học tập: đối với công chức, viên chức và người lao động thực hiện đúng giờ giấc làm việc. Các đơn vị giảng dạy phải bố trí lịch trực hàng tuần và làm việc tại khoa. Học viên các lớp thực hiện nghiêm túc, đầy đủ nội quy học tập, thi cử, sinh hoạt tại ký túc xá. Ngoài giờ lên lớp, các buổi tự học, tự nghiên cứu được thực hiện tập trung tại Trung tâm Thông tin khoa học và các giảng đường dưới sự kiểm tra, giám sát của chủ nhiệm lớp, công chức Trung tâm Thông tin khoa học, Ban Thanh tra Học viện.

Phát động phong trào thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ trong toàn công chức, viên chức, người lao động và học viên của Học viện để nâng cao sức khỏe, đời sống tinh thần bằng các hoạt động thiết thực, cụ thể như tổ chức các hoạt động văn nghệ chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm; thường xuyên tổ chức các giải chạy tiếp sức, bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, tennis, pickleball… với phương châm: “Thể thao mang lại sức khỏe. Sức khỏe khơi nguồn sáng tạo”. 

Tự hào với truyền thống 75 năm xây dựng và phát triển, toàn thể công chức, viên chức, người lao động Học viện Chính trị khu vực III quyết tâm phấn đấu đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa để Học viện mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ cán bộ, giảng viên, học viên và là nơi thắp lên ngọn lửa của niềm đam mê và khát vọng vươn lên.

Ban Biên tập Cổng TTĐT

(Nguồn: Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 7/2024)

Bài viết liên quan

VĂN HÓA TRƯỜNG ĐẢNG

VĂN HÓA TRƯỜNG ĐẢNG

Lịch sử của quốc gia luôn trường tồn. Lịch sử của dân tộc luôn vĩ đại. Lịch sử của trường Đảng mang tên Bác luôn là điểm tựa, là niềm